Cây nha đam đặc điểm thành phần dược tinh
Một trong những dược thảo đã vượt được hàng rào ngăn cách giữa đông và tây y, để được mọi ngành y học cùng sử dụng, là Nha đam (Lô hội). Ngay cả Hoa Kỳ, vốn được xem là một nước… chậm tiến trong việc dùng thảo dược. Cũng đã dùng Nha đam trong nhiều dược phẩm và mỹ phẩm. Hơn nữa, nhiều nhà nghiên cứu Mỹ đã khuyên dân Mỹ mỗi nhà nên trồng một cây. Để vừa làm cảnh vừa làm thuốc và dùng khi cần cấp cứu vì phỏng!
Cây Nha đam còn được gọi là cây Lô hội. Tên khoa học là Aloe vera hoặc Aloe barbadensis. Thuộc họ Aloeaceae (Liliaceae) . Tên Aloe vera được chính thức công nhận bởi Quy ước quốc tế về danh xưng thực vật.
Tuy nhiên, trong danh mục cây thuốc của Tổ chức y tế thế giới (WHO). Aloe được xem là tên chung của khá nhiều loài khác nhau như Aloe chinensis, A. elongata, A. indica… Ngoài ra, một loài Aloe khác, Aloe ferox cũng được chấp nhận là một cây cung cấp nhựa Aloe.
Ở Mỹ gọi cây Nha đam (Aloe vera) dưới tên “Curacao Aloes”. Còn Aloe ferox dưới tên “Cape Aloes”. Người Pháp gọi dưới những tên : Aloe de Curacao, Aloe du Cap. Đông y gọi là Lô hội. WHO cũng liệt kê tên gọi của Lô hội tại các nước với 78 danh xưng khác nhau… Tại nước ta được gọi là Lô hội hoặc Nha đam, Lưỡi hổ.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÂY NHA ĐAM
Cây Nha đam là một cây thuốc, không thuộc loại ma túy. Nhưng đã gây ra cả một cuộc chiến tranh: Khi Đại đế Alexander chinh phục Ai Cập vào năm 332 trước Tây lịch. Ông đã nghe nói đến một cây thuốc có khả năng trị vết thương thần kỳ tại một hòn đảo tên là Socotra, ngoài khơi Somalia. Và để lấy cây này về làm thuốc cho quân của mình. Đồng thời ngăn chặn địch quân không cho họ chiếm được cây thuốc này. Ông đã gửi hẳn một đoàn quân đi chiếm hòn đảo, và cây này chính là cây Nha đam.
Tuy cây Nha đam có nguồn gốc từ châu Phi, nhưng sau đó đã được đưa sang trồng tại châu Mỹ. Nhất là vùng West-Indies và dọc bờ biển Venezuela. Trong thế kỷ 19, đa số Nha đam xuất cảng sang châu Âu đều từ các đồn điền tại West-Indies. Thuộc địa của Hà Lan (tại các đảo Aruba và Barbados). Qua hải cảng Curacao, nên được gọi là Curacao Aloe, Barbados Aloe… Các Nha đam của châu Phi như Cape Aloe, Uganda Aloe, Natal Aloe… được gọi chung dưới tên thương mãi Zanzibar Aloe.
Đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng đã đem Nha đam vào trồng ở nước ta. Nhất là tại Phan Rang, Phan Thiết để lấy nhựa xuất sang châu Âu. Cho đến sau thế giới chiến tranh lần thứ hai thì không xuất được nữa. Nên Aloe vera trở thành cây hoang dại tại Ninh Thuận và Bình Thuận.
ĐẶC TÍNH THỰC VẬT
Cây Nha đam thuộc loại cây nhỏ. Lá dạng bẹ, không có cuống, mọc vòng rất sát nhau. Màu từ lục nhạt đến lục đậm. Lá mọng nước, mép lá có răng cưa thô như gai nhọn, cứng tùy theo loại. Mặt trên lõm có nhiều đốm không đều. Lá dài từ 30 – 60 cm. Phát hoa ở nách lá, có thể dài đến 1 m, mang rất nhiều hoa mọc rũ xuống. Với 6 cánh hoa dính nhau ở phần gốc, 6 nhị thò. Quả nang chứa nhiều hột.
Cây Nha đam rất dễ trồng nơi ráo nước, nhiều nắng nhưng cần tưới 2 – 3 ngày 1 lần. Trồng bằng chồi non phát xuất từ gốc. Có thể trồng trong chậu kiểng. Cây tuy thích ánh sáng mặt trời nhưng cũng chịu được bóng râm và đất cằn cỗi. Nha đam không phát triển được ở nơi có mùa đông giá rét. Trong số hơn 300 loài Aloe, ngoài Aloe vera, Aloe ferox… dùng làm thuốc. Còn một loài được dùng làm cây cảnh rất đẹp, như Aloe variegata (Lô hội mỏ két) có hoa màu đỏ; Aloe maculata (Lô hội vằn), hoa màu da cam…

THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Cây Nha đam là nguồn cung cấp hai dược liệu khác hẳn nhau.
Dược liệu thứ nhất là một chất nhựa Nha đam. Ở ngay dưới lớp biểu bì của lá có chứa một chất nước cốt màu vàng lục, sau khi chảy ra, tự cô đặc lại ở nhiệt độ bình thường, có màu vàng nâu, óng ánh và rất đắng.
Chất nước cốt tự khô này chứa các hoạt chất hydroanthron: Gồm các chuyển hóa chất hydroanthracen. Mà những chất quan trọng nhất là aloin A và B (từ 25 đến 40%). Hỗn hợp aloin A và B còn được gọi là Barbaloin; Hydroxy-aloin A và B (từ 3 đến 4%); một ít aloe-emodin và chrysophanol. Các chuyển hóa chất Chromon gồm 8-C-glycosyl chromon, còn gọi aloeisin (khoảng 30%) và các aloeresin A và B.
Dược liệu thứ hai là một chất nhầy gọi là gel Aloe. Chất gel này có thể lấy bằng cách gọt bỏ vỏ lá Nha đam màu lục rồi nghiền nát miếng gel trong suốt trong lá. Chất gel này chứa một loại polysaccharid gồm: Pectin, hemicellulose, gluco mannan, acemannan và các chuyển hóa chất mannose.
Trong cây Nha đam còn có thêm những chất khác như: Enzym: bradykinase, các acid amin, lipid, sterol (lupeol, campesterol, beta-sitosterol), tanin, hợp chất hữu cơ loại magnesium lactat, một chất kháng-prostaglandin…
Đặc điểm của cây:
Cây Tầm Xuân–Cây Ôliu–Cây Hạnh Nhân
Dược tính & Công dụng của cây nha đam
NHA ĐAM TRONG ĐÔNG Y
Đông y cổ truyền dùng Nha đam dưới dạng chất nhựa khô từ nhựa lá cô đặc. Dược liệu được lấy từ các loài Aloe vera var. chinensis hay A. ferox trồng tại các tỉnh phía nam. Theo đông y thì Nha đam hay Lư hội có vị đắng, tính hàn. Tác dụng vào các kinh thuộc can, vị và đại trường. Nha đam có tác dụng hạ hỏa, tống ứ. Dùng để trị táo bón, chóng mặt, mắt đỏ và tinh thần cáu kỉnh do ở “nhiệt” ứ.
Dùng chung với Chu sa để trị táo bón kinh niên do nhiệt ứ. Nha đam diệt được ký sinh trùng, và trị được trẻ em chậm phát triển vì sán lãi. Nha đam “thanh nhiệt” và làm mát gan. Trị các chứng đau hạ vị, chóng mặt, nhức đầu, ù tai, cáu bực, bón và sốt nóng do ở nhiệt tại kinh can. Nha đam được dùng chung với rễ Long đởm và Hoàng cầm. Liều dùng Nha đam trong đông y: từ 0,3 – 1,5 gr dưới dạng viên, hoàn hoặc bột (không công hiệu khi dùng dưới dạng thuốc sắc).
Đặc điểm của cây:
Cây Hoa Cúc–Hoa Oải Hương–Cây Sả–Cây Hoa Nhài
NHA ĐAM TRONG TÂY Y
Tây y sử dụng cây Nha đam như dược phẩm
Tác dụng kháng viêm giảm đau
Gel trong nha đam có tác dụng kháng viêm giảm đau. Làm giãn nở các vi mạch máu, giúp đưa máu về nuôi dưỡng các tế bào bị hư hại. Tác dụng kháng viêm của gel đã được giải thích bằng 3 cơ chế sinh học: (1) phân hóa tố (enzym) bradykinase (loại carboxypeptidase) trong Aloe gel có thể ức chế tác dụng gây đau nhức của Bradykinin. (2) Magnesium lactat có khả năng ngăn cản tiến trình tạo histamin. (3) Khi có sự hiện diện của Aloe gel, các chất thromboxan B2 và prostaglandin F2 (các chất gây viêm và gây đau nhức) đều giảm bớt.
Hợp chất loại sterol (lupeol) trong Aloe gel có tác dụng chống sưng rất mạnh. Aloe gel đã được chứng minh là có tác dụng ngăn chặn được sự phát triển của các vi trùng Mycobacterium tuberculosis (bệnh lao), Staphyloccoccus aureus, Streptococcus pyogenes (gây mụn nhọt), Salmonella paratyphi, Pseudomonas, Escherichia coli… và các loại nấm gây bệnh như Candida albicans, Trichophyton (nấm tóc), và cả siêu vi Herpes.
Công dụng giúp vết thương mau lành
Các thử nghiệm lâm sàng ghi nhận gel Nha đam giúp vết thương mau lành: Bằng cách kích hoạt trực tiếp hoạt tính của các đại thực bào và các nguyên bào sợi. Sự kích hoạt các nguyên bào sợi làm gia tăng sự tổng hợp collagen và proteoglca. Giúp sửa chữa các hư hỏng nơi mô tế bào.
Cơ chế tác dụng này gồm hai mặt: Trước hết Acemannan là một tác nhân kích hoạt đại thực bào rất mạnh. Do đó kích thích sự phóng thích các cytokin, và thứ đến là các yếu tố tăng trưởng có thể kết dính trực tiếp với acemannan. Tạo sự ổn định và kéo dài khả năng kích ứng tạo mô tế bào.
Tác dụng trị phỏng:
Các vết phỏng cấp 1 và 2 khi được chữa trị bằng cách thoa trực tiếp gel Nha đam tươi. Cho thấy thời gian lành vết thương nhanh hơn, đồng thời vết thẹo cũng nhỏ hơn. Tác dụng này được cho là do allantoin trong gel. Gel cũng khá hữu hiệu trong các trường hợp vết thương ngoài da do phỏng vì phơi nắng quá độ. Khi phân tích tác dụng trên vết thương cho thấy gel tác dụng như một chất ức chế Thromboxane A2. Một chất trung gian gây tiến trình hư hại mô tế bào.
Tác dụng trị nấm nơi bộ phận sinh dục của cây Nha đam
Những thử nghiệm trong ống nghiệm cho thấy gel có thể làm Candida albicans (thủ phạm gây bệnh nấm nơi bộ phận sinh dục phụ nữ – yeast infection) ngưng tăng trưởng. Nhưng các kết quả này chưa được FDA chấp nhận.
Cây Nha đam và Khả năng kích thích hệ miễn dịch và trị một vài loại ung thư
Các nhà nghiên cứu tại Đại học y khoa Tokyo đã tìm thấy những lectin trong gel Nha đam. Có khả năng kích thích hệ miễn dịch gia tăng sự sản xuất các đại thực bào có thể tiêu diệt được các vi khuẩn và các tế bào lạ (tế bào ung thư mới phát).
Các nghiên cứu tại Nhật và Hà Lan cho rằng các hợp chất trong Aloe gel có thể giúp gia tăng sự hoạt động của hệ miễn dịch. Bằng cách trung hòa được các hóa chất độc hại từ các tế bào hư hỏng và nhờ đó giúp bảo vệ được các tế bào khác còn nguyên vẹn.
Một nghiên cứu khác tại Trung tâm y học thuộc Viện ĐH Texas (San Antonio), khi nghiên cứu tác dụng của trích tinh Aloe trên tế bào ung thư cũng cho thấy những kết quả khả quan; tuy nhiên về tác dụng của Aloe-emodin trên tế bào ung thư bạch cầu thì chưa được Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ chấp nhận vì liều sử dụng tương đối cao, có thể gây độc hại cho người bệnh.
Gel Nha đam và bệnh tiểu đường
Một thử nghiệm tại châu Âu cho thấy gel có khả năng làm hạ đường huyết nơi thú vật. Và thử nghiệm tại Thái Lan (1996) trên 72 người tiểu đường, tuổi từ 35 đến 60, uống một dung dịch Aloe gel tươi, sau 1 tuần lễ, lượng đường huyết giảm rõ rệt, và tiếp tục giảm đều trong 35 ngày sau đó; nồng độ triglycerid cũng giảm theo với nồng độ đường.
Tại nước ta hiện thời có nhiều người dùng lá Nha đam tươi xay sinh tố luôn cả vỏ để trị bệnh là không tốt. Vì chất nhựa Aloe trong vỏ màu lục có độc. Ngoài ra trên thị trường có nhiều sản phẩm từ gel được bán với giá rất đắt là không cần thiết vì không đạt yêu cầu bằng ăn gel tươi. Liều dùng có thể từ 100 – 200 g gel Nha đam tươi mỗi ngày.
Gel cây Nha đam trong mỹ phẩm
Nha đam gel được dùng trong nhiều mỹ phẩm, nhất là những loại kem thoa ngoài da. Nữ hoàng Cleopâtre đã từng dùng gel Nha đam để thoa da cho bóng. Nhưng muốn có một làn da đẹp nên dùng gel tươi, lấy ngay từ lá, vì đa số các loại gel “ổn định hóa” trong công nghiệp mỹ phẩm dùng trên thị trường như kem thoa mặt, dưỡng da, dưỡng thể và dầu gội đầu lại không hề có tác dụng trị liệu, vì các hợp chất thiên nhiên của gel Nha đam bị phân hủy do quá trình chế biến, bảo quản.
Một số nhà sản xuất mỹ phẩm còn quảng cáo là Nha đam có thể ngăn chặn sự lão hóa của da. Nhưng thật ra Aloe gel có khả năng thấm ướt, làm ẩm da, nên tạm thời làm da bớt bị nhăn mà thôi. Gel Nha đam có thể có tác dụng kích thích sự tổng hợp các chất collagen và sợi elastin, nên có thể ngăn chặn sự hủy hoại của da trong tiến trình của sự lão suy khi ta bôi gel tươi cho da.
Tác dụng trị liệu của cây Nha đam
Tác dụng trị liệu chính thức của nhựa Nha đam khô được y học phương Tây chấp nhận là gây xổ. Trị táo bón hay nhuận trường nếu dùng liều thấp. Tác dụng làm xổ của nhựa Aloe do hoạt chất 1,8-dihydroanthracen glycosid, aloin A và B. Sau khi uống aloin A và B, không bị hấp thu nơi phần trên của ruột, sẽ bị thủy phân nơi ruột bởi các vi khuẩn để trở thành các chất biến dưỡng có hoạt tính (chất chính là aloe-emodin-9-anthron). Tác dụng xổ của nhựa cây Nha đam thường xảy ra 6 giờ sau khi uống, và có khi chậm đến 24 giờ sau. Cơ chế hoạt động của nhựa Nha đam gồm 2 phần:
Kích thích nhu động ruột, gia tăng sự tống xuất và thu ngắn thời gian thực phẩm chuyển qua ruột, và làm giảm bớt sự hấp thu chất lỏng từ khối lượng phân.
Gia tăng sự thẩm thấu tế bào qua màng nhày ruột có lẽ nhờ ở ức chế các ion Na+, K+, adenosin triphosphatase hoặc ức chế các kênh clorur đưa đến sự gia tăng lượng nước trong ruột già.

Lưu ý khi sử dụng cây nha đam
Việc dùng nhựa Nha đam làm thuốc nhuận trường, trị táo bón cũng là một vấn đề bàn cãi giữa y học: Các nước châu Âu, nhất là Đức, cho phép dùng nhựa Lư hội làm thuốc xổ. Với cách dùng là sử dụng trích tinh khô đã được tiêu chuẩn hóa. Phải chứa từ 19 đến 21% các chất hydro-anthracen.Liều đề nghị dùng để xổ là 0,05 đến 0,1 g (50 – 100 centigram) trích tinh khô.
Các nhà dược học Hoa Kỳ nói không nên dùng nhựa cây Nha đam, nếu không thật cần thiết để trị táo bón. Vì ngoài vị đắng, nhựa Nha đam do chứa các hợp chất anthraquinon là những chất gây xổ bằng cách kích thích nhu động ruột. Gây ra những phản ứng đau quặn bụng và gây khó chịu cho ruột. Nếu dùng quá liều có thể đưa đến xuất huyết đường ruột và cả sạn thận. Phụ nữ có thai và cho con bú không nên dùng thuốc xổ có nhựa Nha đam. Vì tác dụng kích thích tử cung có thể gây ra trụy thai, và gây hại cho trẻ bú mẹ.